Lịch sử Thanh_Hải

Sơ khởi

Các phát hiện trong di chỉ Tiểu Sài Đán (小柴旦遗址) cho thấy vào cuối thời kỳ đồ đá cũ, cách nay 30.000 năm, ở phía tây Thanh Hải đã có loài người lao động và sinh sống.[5] Trong thời đại đồ đồng tại Trung Quốc, Thanh Hải là nơi sinh sống của tổ tiên những người Tạng Amdo, họ sinh sống nhờ vào nông nghiệp và săn bắn, hình thành nên văn hóa Ca Ước (卡约文化). Đến thời ThươngChu tại Trung Nguyên, bộ lạc Khương đã hình thành trên địa bàn Thanh Hải, sử sách Trung Quốc gọi là Tây Khương (西羌). Căn cứ theo giáp cốt văn từ thời Thương, vua Vũ Đinh của Thương đã xuất binh chinh phạt Tây Khương, chiếm lĩnh nhiều khu vực rộng lớn ở đông bộ tỉnh Thanh Hải ngày nay, người Khương phải cứ sứ thần đến triều Thương để thương lượng. Thời Tây Chu, đã xuất hiện liên hệ về chính trị và kinh tế giữa khu vực tỉnh Thanh Hải ngày nay và Trung Nguyên, đến thời Tần thì quan hệ này trở nên mật thiết hơn.

Từ thế kỷ thứ II TCN đến thế kỷ thứ III SCN

Đến thời Nhà Hán, khu vực phía đông của Thanh Hải nằm dưới quyền kiểm soát của triều đình Trung Hoa. Triều đình Nhà Hán đã từng thiết lập nên Tây Hải quận, Hà Nguyên quận, Hoàng Nguyên quận, Kim Thành quân, khống chế các khu vực như Quý Nam, Quý Đức, Tây Ninh, Hoàng Nguyên ngày nay, cũng thiết lập chức hộ Khương hiệu úy. Những năm 121 TCN-111 TCN thời Tây Hán, Nhà Hán đã thiết lập Tây Bình đình (西平亭) tại khu vực Tây Ninh ngày nay, mở đầu cho lịch sử phát triển của thành phố này. Thời Hán Bình Đế, Vương Mãng đã thiết lập Tây Hải quận ở địa phận Thanh Hải ngày nay.[6] Đến năm Kiến An thứ 19 (214), triều đình Trung Hoa lại thiết lập Tây Hải quận trên địa bàn Thanh Hải. Đầu thời Hán, phía tây tỉnh Thanh Hải ngày nay tồn tại các bộ lạc như Tiên Linh Khương (先零羌), Thiêu Đang Khương (烧当羌), Phát Khương (发羌).

Sau khi nhà nước Tiên Ti tan rã, 1.700 hộ thuộc các nhóm du mục do Mộ Dung Thổ Dục Hồn lãnh đạo đã di cư từ khu vực Đông Bắc Trung Quốc ngày nay đến vùng đồng cỏ tươi tốt quanh hồ Thanh Hải vào khoảng giữa thế kỷ thứ III. Những người Tiên Ti này đã lập nên nước Thổ Dục Hồn vào năm 284[7] khi họ khuất phục các sắc dân bản địa, tức người Khương cổ, những người mà bao gồm trên 100 bộ lạc phối hợp lỏng lẻo và khác biệt, không quy phục lẫn nhau hay một thế lực nào. Ngoài Thanh Hải, nước Thổ Dục Hồn còn khống chế một phần tỉnh Cam Túc ngày nay.

Ở nam bộ Thanh Hải ngày nay, người Đinh Linh (丁零) đã thành lập ra Bạch Lan Quốc (白蘭國) từ thế kỷ thứ II, dân cư của nước này bao gồm người Đinh Linh và người Khương cổ, tồn tại cho đến đầu thế kỷ thứ IV, tức trong thời gian đầu của Thổ Dục Hồn.

Thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ VI

Trong thời Ngũ Hồ thập lục quốc, năm 395, Thốc Phát Ô Cô đã tấn công một số bộ lạc không chịu thần phục mình ở xung quanh, bao gồm Ất Phất (乙弗) và Chiết Quật (折掘), buộc họ phải khuất phục. Ông cho xây dựng Liêm Xuyên bảo (廉川堡, nay thuộc Hải Đông, Thanh Hải) để làm tổng hành dinh. Năm 397, Thốc Phát Ô Cô lập ra nước Nam Lương. Vào mùa xuân năm 399, Thốc Phát Ô Cô dời đô từ Liêm Xuyên đến Lạc Đô (樂都, cũng thuộc Hải Đông ngày nay). Vua cuối cùng của Nam Lương là Thốc Phát Nục Đàn đã buộc phải đầu hàng Tây Tần- cũng là một nước trong Ngũ Hồ thập lục quốc, vào năm 414, sau khi Tây Tần chiếm được kinh thành Lạc Đô.

Đến mùa đông năm 426, quân Hồ Hạ do Hô Lô Cổ (呼盧古) và Vi Phạt (韋伐) chỉ huy đã chiếm được thành Tây Bình (西平, nay thuộc Tây Ninh, Thanh Hải) của Tây Tần, sau đó quân Hạ rút lui. Dưới thời vua Khất Phục Mộ Mạt trị vì (428 – 431), quân Bắc Lương đã liên minh với vua Mộ Dung Mộ Lợi Diên (慕容慕利延) của Thổ Dục Hồn để tấn công Tây Tần. Năm 431, hoàng đế nước Hạ là Hách Liên Định đã bắt và giết chết vua Khất Phục Mộ Mạt của Tây Tần, Tây Tần bị tiêu diệt, còn lãnh thổ trước đây của Tây Tần hầu hết đều rơi vào tay Thổ Dục Hồn.

Thổ Dục Hồn là thế lực đầu tiên trong lịch sử đã thống nhất vùng Tây Bắc Trung Quốc, phát triển tuyến phía nam của Con đường tơ lụa, thúc đẩy trao đổi văn hóa giữa các lãnh thổ phía đông và phía tây. Thổ Dục Hồn thống trị khu vực tây bắc trong hơn ba thế kỷ rưỡi cho đến khi bị Thổ Phồn tiêu diệt[8]. Thổ Dục Hồn tồn tại như một nước độc lập bên ngoài Trung Hoa[9] và không được coi là một phần của sử học sử Trung Quốc, không được tính là một trong Thập lục quốc.

Thời Nam-Bắc triều, một số bộ phận ở phía đông của Thanh Hải chịu sự kiểm soát của các Bắc triều, lần lượt là Bắc Ngụy, Đông Ngụy rồi đến Bắc Chu. Năm 445, Bắc Ngụy đã đổi Tây Bình quận thành Thiện Thiện trấn, đến năm 526, Bắc Ngụy lại đổi Thiện Thiện trấn thành Thiện châu, quản lý khu vực Tây Bình (Tây Ninh ngày nay).

Từ thế kỷ VII đến thế kỷ thứ X

Đến thời nhà Tùy, vào năm Đại Nghiệp thứ 3 (607) thời Tùy Dạng Đế, triều đình đã đổi Thiện châu thành Tây Bình quận, quản lý hai huyện Hoàng Thủy và Hóa Long, khu vực Tây Ninh ngày nay thuộc Hoàng Thủy huyện của Tây Bình quận. Năm Đại Nghiệp thứ 5 (609), Tùy Dạng Đế tây chinh đánh Thổ Dục Hồn, đánh bại Thổ Dục Hồn, quân chủ của Thổ Dục Hồn bị bắt sống. Thổ Dục Hồn do đó phải di cư về phía nam, chịu mất một lãnh thổ rộng lớn cho Tùy. Trên đất cũ của Thổ Dục Hồn, nhà Tùy thiết lập bốn quận là Thiện Thiện, Tây Hải, Thả Mạt, Hà Nguyên. Đến năm 618 TCN, Nhà Đường sau khi thành lập, đã thiết lập hai châu Thiện và Khuếch ở phía đông Thanh Hải, quản lý khu vực bao gồm Tây Ninh ngày nay.

Những năm đầu thế kỷ thứ VII, Thổ Phồn lớn mạnh, khuếch trương thế lực đến khu vực Thanh Hải ngày nay, đe dọa trực tiếp đến Thổ Dục Hồn. Còn trong thời gian đầu của Nhà Đường, Thổ Dục Hồn suy yếu dần và ngày càng vướng vào xung đột giữa Đường và Thổ Phồn. Trong những năm 662-663, quân Thổ Phồn đã thôn tính Thổ Dục Hồn, quân chủ Thổ Dục Hồn là Mộ Dung Nặc Hạt Bát đưa tàn dư của đất nước đến đầu hàng Đường ở Lương Châu thuộc Cam Túc ngày nay. Bên cạnh đó, một bộ phận người Thổ Dục Hồn vẫn ở lại đất cũ và trở thành thuộc quốc của Thổ Phồn. Năm 670, trong trận Đại Phi Xuyên (大非川之戰) tại nơi mà nay thuộc huyện Cộng Hòa của Thanh Hải, quân Đường đã thất bại trước 20 vạn quân Thổ Phồn, đây là thất bại lớn nhất trong lịch sử của Đường và chính thức đưa Thổ Dục Hồn đến hồi kết. Có học giả nhận định rằng người Thổ ở Thanh Hải và Cam Túc hiện nay là hậu duệ của Thổ Dục Hồn.

Sau loạn An Sử, Nhà Đường suy yếu, Thổ Phồn nhân cơ hội này đã đoạt lấy Tây Ninh vào năm 763. Trong thời gian nằm dưới quyền cai quản của Thổ Phồn, Tây Ninh được gọi trong tiếng Hán là "Thanh Đường thành". Khu vực Thanh Hải cũng như đa phần phía tây Trung Quốc từ đó nằm trong phạm vi thế lực của Thổ Phồn. Các bộ lạc Thổ Phồn tại khu vực Thanh Hải không phụ thuộc lẫn nhau, cuối cùng xảy ra nội chiến.

Giác Tư La Quốc

Đến đầu thế kỷ thứ XI, Thổ Phồn phân liệt thành một vài tập đoàn bộ lạc lớn. Lý Lập Tuân (李立遵) là thủ lĩnh của một trong số các tập đoàn bộ lạc đó, ông ta đưa một hậu duệ của tán phổ Thổ Phồn là Giác Tư La (唃廝囉, dịch âm từ tiếng Tạng, ý chỉ Phật tử) đến khu vực nay là huyện Bình An của Thanh Hải, tôn làm tán phổ, Lý Lập Tuân tự lập làm luân bô (论逋, tức tể tướng). Quyền lực đều nằm trong tay của Lý Lập Tuân song người này lại xa hoa trác táng. Sau khi Giác Tư La trở thành tán phổ, cá bộ lạc Thổ Phồn ở khu vực Hà Hoàng dần quy phục. Đến khi Lý Lập Tuân thất bại trong trận Tam Đô Cốc (三都谷之战) trước danh tướng Tào Vĩ của Bắc Tống, Giác Tư La thừa cơ ly khai khỏi Lý Lập Tuân. Năm 1034, Giác Tư La định đô tại Thanh Đường thành, hiệu là Tông Khách Vương, lập ra Giác Tư La Quốc (唃厮啰国), sử Trung Quốc còn gọi là vương quốc Thanh Đường. Thời hưng thịnh, cương vực Giác Tư La Quốc trải rộng đến Tam Đô Cốc (nay thuộc huyện Cam Cốc của tỉnh Cam Túc, bắc giáp Kỳ Liên Sơn, nam đến châu Quả Lặc của Thanh Hải ngày nay, tây đến hồ Thanh Hải, rộng trên 3000 lý, nhân khẩu gần một triệu người.[10]

Nhiều thương nhân thay vì đi qua hành lang Hà Tây do Tây Hạ kiểm soát đã lựa chọn chuyển sang tuyến đường Thanh Hải, giúp Giác Tư La Quốc phát triển mạnh về mậu dịch. Khi đó Thanh Dường thành là một đô thị thương nghiệp phồn vinh. Giác Tư La có quan hệ với cả Tống, Liêu, Tây Hạ, Hồi CốtTây Vực, bảo vệ tính độc lập của mình.[10]

Thuộc Tống, Kim, Hạ

Năm 1099, quân Tống tiến chiếm lưu vực Hoàng Thủy, thiết lập Bộ châu tại Thanh Đường và thiết lập Hoàng châu tại Mạc Xuyên. Tuy nhiên, trước sự phán kháng của người Thổ Phồn, quân Tống đã rút khỏi lưu vực Hoàng Thủy vào năm sau. Đến năm 1103, quân Tống do Vương Hậu (王厚) thống lĩnh lại công chiếm Hoàng châu. Đến năm sau, quân Tống lại chiếm được Thiện châu, Khuếch châu, đổi Thiện châu thành Tây Ninh châu, chính quyền Giác Tư La Quốc tuyên cáo giải thể.[10] Đến năm 1127, Bắc Tống sụp đổ, quân Tống rút khỏi đông bộ Thanh Hải vào năm sau, giao lại vùng đất này cho hậu duệ của Giác Tư La quản lý. Năm 1131, quân Kim công chiếm khu vực Hà Hoàng. Năm 1136, Tây Hạ đánh chiếm Lạc châu và Tây Ninh châu của Kim. Sau đó, Tây Hạ sai sứ thần sang thỉnh cầu Kim cấp khu vực đông bộ Thanh Hải cho mình, Kim đồng ý cấp ba châu Lạc, Khuếch và Tích Thạch cho Tây Hạ. Sau đó Hạ đổi tên Tích Thạch châu thành An Thành. Về sau, Kim tách phía tây Hà châu để lập nên Tích Thạch quân, đến năm 1182 thì Kim thăng Tích Thạch quân thành châu. Biên giới giữa Kim và Hạ ở khoảng Long Vụ Hà (隆务河), phía nam của Hoàng Hà.[10]

Thời Nguyên

Năm 1227, sau khi quân Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn suất lĩnh ngược dòng Hoàng Hà công chiếm Tích Thạch châu của Kim, lại phân binh công chiếm Tây Ninh và các châu khác của Tây Hạ. Năm 1261, tức năm Trung Thống thứ hai thời Nguyên Thế Tổ, Nhà Nguyên đã thiết lập Tây Hạ Trung hưng hành trung thư tỉnh (sau đổi tên thành Cam Túc đẳng xứ hành trung thư tỉnh), khu vực trung hạ du Hoàng Thủy của Thanh Hải thuộc Tây Ninh châu của Cam Túc hành tỉnh.

Đầu những năm Chí Nguyên (1264-1294) (có thuyết nói là vào năm 1253), Nhà Nguyên đã thiết lập Thổ Phồn đẳng xứ tuyên ủy sứ ty nguyên soái phủ (吐蕃等處宣慰司都元帥府), lãnh thổ bao gồm khu vực Thanh Hải (trừ trung hạ du Hoàng Thủy), tây nam Cam Túc và một bộ phận phía bắc Tứ Xuyên ngày nay. Thời Nguyên, Lạc châu và Khuếch châu đời Tống và Tây Hạ được nhập vào Tây Ninh châu. Bồn địa Sài Đạt Mộc ở tây bắc Thanh Hải quy thuộc Cam Túc hành tỉnh. Thời Nguyên, triều đình thực hiện chính sách phái tông vương đến trấn thủ địa phương. Vào đầu thời Nguyên, Hốt Tất Liệt đã phong cho con trai thứ bảy của mình là Áo Lỗ Xích (奧魯赤) làm Tây Bình vương, trấn thủ khu vực Xuyên-Tạng-Cam-Thanh.[10]

Thời Nguyên, dân tộc chủ thể của Thanh Hải là người Tạng, bên cạnh đó là người Hán, người Mông Cổ và người Hồi Hột. Cũng trong thời gian đó, bộ tộc Tát Lỗ Nhĩ thuộc bộ lạc Ô Cổ Tư của người Đột Quyết đã từ Trung Á di cư đến Thanh Hải, định cư tại huyện tự trị dân tộc Tát Lạp Tuần Hóa ngày nay. Tổ tiên người Hồi từ Trung Á nhập cư đến Thanh Hải với số lượng lớn, họ đa phần là "Tây Vực thân quân" và thợ thủ công đi theo trong quân đội Mông Cổ, thương nhân và gia thuộc, sau này hình thành cộng đồng người Hồi ở khu vực Cam-Thanh. Triều đình Nhà Nguyên thúc đẩy và lợi dụng Phật giáo Tạng truyền để phục vụ cho việc thống trị của họ tại Thanh Hải, thi thành chế độ chính giáo hợp nhất trên toàn bộ các khu vực dân tộc tại Thanh Hải.[10]

Thời Minh

Những năm đầu Hồng Vũ triều Minh, quân Minh dưới quyền phó tướng Đặng Dũ (鄧愈) đã tiến vào khu vực Hà Hoàng, Tây Ninh, các thế lực triều Nguyên cũ dần dần hàng Minh. Vào năm Hồng Vũ thứ 6 (1373) thời Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, triều Minh đã đổi Tây Ninh châu của Nhà Nguyên thành Tây Ninh vệ, vệ được chia tiếp thành năm thiên hộ sở Trung, Tả, Hữu, Tiền, Hậu. Triều Minh cũng tiến hành gia tăng mức độ khống chế đối với khu vực Thanh Hải, thi hành chính sách "Thổ Hán tham trị" tại khu vực Hà Hoàng, và đây cũng là đặc điểm chính trong nền chính trị Thanh Hải vào thời Minh. Ngoài ra, đối với người Tát Lý Uý Ngột Nhi ở bồn địa Sài Đạt Mộc, triều Minh thiết lập bốn vệ: An Định, A Đoan, Khúc Tiên, Hãn Đông, do Tây Ninh vệ kiểm soát, sử gọi là "Tây Ninh Tái Ngoại tứ vệ". Năm Tuyên Đức thứ 9 (1434) thời Minh Tuyên Tông, triều đình đã thiết lập Tất Lý Truật Giang vệ tại lưu vực Thông Thiên Hà thuộc địa phận châu Ngọc Thụ ngày nay. Vệ sở quân của các thể chế theo chế độ ki mi này do thủ lĩnh bộ lạc đảm nhiệm, tiến hành quản lý nội bộ bộ lạc.[11]

Về mặt quân sự, vào hậu kỳ Nhà Minh, song song tồn tại với hệ thống vệ sở còn có hệ thống quan chức trấn thủ, trong đó có tổng binh, phó tổng binh, tham tướng, du kích, thủ bị, bả tổng và các chức vụ khác. Nói chung, vào thời Minh, khu vực nông nghiệp ở phía đông của Thanh Hải, chủ yếu là đồn điền quốc hữu cùng thổ địa thuộc sở hữu của lãnh chúa (hoặc địa chủ), còn lại là thổ địa tự canh tác của nông dân. Ở phía tây và phía nam Thanh Hải là khu vực mục nghiệp, theo chế độ lãnh chúa bộ lạc chiếm hữu. Đồn điền ở khu vực Hà Hoàng vào thời Minh chủ yếu là quân đồn, với mục đích để nuôi quân, đảm bảo ổn định biên cương tây bắc Đại Minh.[11]

Từ thời Tống đến thời Nguyên, đã có nhiều người Mông Cổ nhập cư đến Thanh Hải. Đến thời Minh, lại có những người Mông Cổ thuộc nhánh Hòa Thạc Đặc (和硕特, Khoshuud) di cư đến, họ chăn nuôi ven hồ Thanh Hải, bồn địa Sài Đạt Mộc và khu vực quanh đoạn uống khúc của Hoàng Hà, thủ lĩnh của họ là Cố Thủy Hãn (固始汗). Tông-khách-ba, một nhà cải cách tôn giáo xuất thân từ khu vực Tây Tạng, đã sáng lập ra Cách-lỗ phái,[11] một trong những giáo pháp quan trọng nhất của Phật giáo Tây Tạng. Cách-lỗ-phái được truyền bá rộng rãi trong khu vực của người Tạng, cũng có ảnh hưởng sâu rộng đến chính trị và kinh tế của Thanh Hải.

Vào những năm cuối thời Minh, một bộ phận quân khởi nghĩa của Lý Tự Thành do Hạ Cẩm (賀錦) đã tây tiến, khống chế khu vực Tây Ninh trong một năm, thế lực vươn tới khu vực hồ Thanh Hải. Hạ Cẩm bị thế lực địa phương tại Tây Ninh giết chết.[11]

Thời Thanh

Cố Thủy Hãn, người thống trị Thanh Hải và Tây Tạng vào những năm cuối thời Minh, đầu thời Thanh

Vào đầu thời Thanh, chế độ thống trị tại Thanh Hải về cơ bản vẫn giống như dưới thời Nhà Minh. Triều đình Nhà Thanh bổ nhiệm các quan sĩ đã đầu hàng mình làm các thổ ti thế tập, trở thành một lực lượng quan trọng trong việc duy trì nền thống trị phong kiến. Năm Thuận Trị thứ 15 (1658), triều đình Nhà Thanh đã đổi Tây Ninh phó tướng thành Tây Ninh trấn tổng binh, gia tăng đồn trú quân sự đối với khu vực phía đông của Thanh Hải.[12]. Thời Khang Hy Đế và Ung Chính Đế, triều Thanh cũng phái quân đến bồn địa Sài Đạt Mộc của Thanh Hải để đối phó với Chuẩn Cát Nhĩ.

Từ cuối thời Minh có đến đầu thời Thanh, một phần lớn địa bàn Thanh Hải ngày nay nằm dưới quyền kiểm soát của người Mông Cổ Hòa Thạc Đặc. Năm 1653, Nhà Thanh đã sách phong cho Cố Thủy Hãn là Tuân Hành Văn Nghĩa Mẫn Tuệ Cố Thủy Hãn, hợp pháp hóa địa vị thống trị của Cố Thủy Hãn tại Thanh-Tạng. Sau khi Cát Nhĩ Đan bị quân Thanh đánh bại, các thai cát Mông Cổ ở Thanh Hải đã quy thuận triều Thanh. Năm 1697, Nhà Thanh đã phong cho thủ lĩnh Mông Cổ tại Thanh Hải làm Hòa Thạc Thân vương. Năm 1717, Hòa Thạc Đặc hãn quốc diệt vong, cháu Cố Thủy Hãn là La Bốc Tạng Đan Tân (羅卜藏丹津, Lobsang Tendzin) đã liên lạc với triều đình Thanh để phản công chiếm lĩnh Tây Tạng từ quân Chuẩn Cát Nhĩ. Năm 1720, Khang Hy Đế phái hoàng thập tứ tử Dận Trinh làm đại tướng quân vương, nhập Tạng đánh đuổi danh tướng Đại Sách Lăng Đôn Đa Bố (大策凌敦多布) của Chuẩn Cát Nhĩ. Sau đó, triều đình Thanh thực thi chính sách hạn chế và đề phòng La Bốc Tạng Đan Tân khiến người này bất mãn.[12] Đến năm 1723, La Bốc Tạng Đan Tân liên hiệp các bộ tộc Mông Cổ ở phía đông Amdo (tức phía đông Thanh Hải ngày nay) phản lại triều đình Thanh, liên lạc với đại hãn Sách Vọng A Lạp Bố Thản (策妄阿拉布坦, Tsewang Arabtan) của Chuẩn Cát Nhĩ. Ung Chính Đế đã phái Phủ Viễn đại tướng quân Niên Canh Nghiêu và Tứ Xuyên đề đốc Nhạc Chung Kỳ suất quân tây chinh, đến năm 1724 thì đánh bại La Bốc Tạng Đan Tân, ông ta buộc phải chạy đến Chuẩn Cát Nhĩ.

Sau đó, theo tấu chương của Niên Canh Nghiêu, triều đình Nhà Thanh đã có sự điều chỉnh lớn đối với việc quản lý Thanh Hải, tăng cường trung ương tập quyền: đầu thời Ung Chính, triều đình Thanh đã thiết lập chức Thanh Hải biện sự đại thần (青海辦事大臣), trực thuộc Lý Phiên viện (理藩院) của triều đình trung ương Thanh, quản lý các khu vực dân tộc thiểu số tại Thanh Hải và sự vụ hai tộc Mông-Tạng; chia khu vực của người Mông Cổ ở Thanh Hải thành 29 kỳ, các kỳ do trát tát khắc (札薩克, jasagh) quản lý, hoạch định địa giới du mục của các kỳ; các bộ lạc Tạng vốn lệ thuộc vào các bộ lạc Mông Cổ thì nay chuyển sang chịu sự quản lý của quan phủ địa phương lân cận.[12] Triều Thanh đã đổi Tây Ninh vệ thành phủ, thiết lập Tây Ninh huyện, Niễn Bá huyện và Đại Thông vệ, do đại thần trú tại Tây Ninh trực tiếp quản lý. Năm 1829 thời Đạo Quang Đế, khu vực phía đông Hà Hoàng về mặt hành chính được tổ chức thành 1 phủ 3 huyện (Tây Ninh, Niễn Bá, Đại Thông), 4 thính (Ba Yên Nhung Cách, Đan Cát Nhĩ, Tuần Hóa, Quý Đức). Triều đình Nhà Thanh cũng tiến hành chỉnh đốn tại các tu viện Cách-lỗ-phái trên địa bàn Thanh Hải.[12]

Thời Ung Chính, Nhà Thanh quy định đất chăn nuôi của người Mông Cổ và của người Tạng tại Thanh Hải lấy Hoàng Hà làm ranh giới, cấm chỉ qua lại. Tuy nhiên, do thảo nguyên Hà Nam nhỏ hẹp, không đủ để chăn thả gia súc, người Tạng Hà Nam (tức phía nam Hoàng Hà) nhớ đến vùng mục địa ở phía bắc nên đã nhiều lần tiến sang bờ bắc Hoàng Hà, phát sinh xung đột vũ trang với quân Thanh tuần phòng, một bộ phận còn cướp bóc của cải của các bộ lạc Mông Cổ. Triều đình Nhà Thanh nhiều lần phái binh trấn áp hoạt động trở lại phía bắc của người Tạng, buộc họ phải quay trở về Hà Nam. Tuy nhiên, người Tạng vẫn di cư về phía bắc với số lượng lớn, đấu tranh để lại được chăn nuôi ở Hà Bắc.[12] Sau khi bùng phát khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, triều đình Thanh mới đồng ý để các bộ lạc Tạng đến chăn nuôi ở khu vực phía bắc Hoàng Hà và quanh hồ Thanh Hải. Những năm Càn Long, Đồng Trị, Quang Tự, ở Thanh Hải đã xảy ra nhiều cuộc nổi dậy chống triều đình Nhà Thanh như của người Tát Lạp, người Hồi, song đều bị triều đình trấn áp.

Thời Thanh, Tây Ninh và các thành thị khác là những trung tâm mậu dịch, thời Càn Long đã xuất hiện các thương hiệu, hội quán của thương nhân Sơn Tây, Thiểm Tây và các địa phương khác. Sau thời Quang Tự, sản phẩm chăn nuôi của Thanh Hải bắt đầu đến tay thương nhân nước ngoài, "lông thú Tây Ninh" có được danh tiếng trên thị trường quốc tế.[12]

Thời Dân Quốc

Tưởng Giới Thạch (phải) gặp hai anh em Mã Bộ PhươngMã Bộ Thanh (thứ hai và thứ nhất từ trái sang), mùa thu năm 1942

Sau Cách mạng Tân Hợi, quan địa phương của triều Thanh tại Thanh Hải tự động từ chức. Chính phủ Bắc Dương bãi bỏ thể chế Thanh Hải biện sự đại thần, thiết lập chức Thanh Hải biện sự trưởng quan. Tháng 9 năm 1912, Viên Thế Khải bổ nhiệm tri phủ trước đây của Tây Ninh phủ, Liêm Hưng (廉興), làm Thanh Hải biện sự trưởng cung, bổ nhiệm Mã Kỳ (馬麒) làm Tây Ninh trấn tổng binh. Năm sau, Liêm Hưng và Mã Kỳ cùng chủ trì hội minh Tế Hải, tuyên bố hoàng đế Nhà Thanh thoái vị, tin tức về việc thành lập Trung Hoa Dân Quốc, khuyên những người đứng đầu cộng đồng Mông Cổ và Tạng liên danh ký tên biểu thị ủng hộ nền cộng hòa để gửi đến chính phủ Bắc Dương. Từ đó, toàn bộ địa bàn Thanh Hải chính thức nằm trong phạm vi của Trung Hoa Dân Quốc.[13]

Sau khi nhậm chức, Mã Kỳ tích cực mở rộng quân sự, lập ra Ninh Hải quân. Đến năm 1915, Liêm Hưng bị chính phủ Bắc Dương bãi chức, Mã Kỳ nhậm chức Cam Biên Ninh Hải trấn thủ sứ kiêm Mông Phồn tuyên ủy sứ, có được sức mạnh cả về quân sự và chính trị tại Thanh Hải. Từ đó, khu vực Thanh Hải kết thúc cục diện quyền lực phân tán cả trăm năm dưới thời Thanh, gia tộc họ Mã thiết lập cơ sở thống trị vững chắc tại Thanh Hải. Đến năm 1925, quân Quốc Dân tiến vào Cam Túc. Năm sau, Phùng Ngọc Tường bổ nhiệm Mã Kỳ làm Thanh Hải hộ quân sứ, quân đội địa phương của Mã Kỳ tiếp nhận quân Quốc Dân cải biên. Ngày 17 tháng 10 năm 1928, Hội nghị chính trị Trung ương Quốc Dân Đảng quyết định lấy 7 huyện của đạo Tây Ninh thuộc tỉnh Cam Túc và vùng thuộc quyền quản lý của Thanh Hải biện sự trưởng quan để thành lập tỉnh Thanh Hải, lấy Tây Ninh làm tỉnh lị, bổ nhiệm Tôn Liên Trọng làm chủ tịch tỉnh Thanh Hải nhiệm kỳ đầu tiên.[13]

Nhiệm kỳ của Tôn Liên Trọng kéo dài không được một năm, sau đó Mã Kỳ, Mã Lân (馬麟), Mã Bộ Phương (馬步芳) kế tiếp nhau làm chủ tịch tỉnh hoặc đại chủ tịch tỉnh Thanh Hải. Sau khi Mã Bộ Phương nắm được chính quyền và quân đội tại Thanh Hải, Thanh Hải về bề ngoài thì phục tùng chính phủ Quốc Dân, quân đội Thanh Hải cũng được xếp vào quân chính phủ Quốc Dân, song quân phiệt họ Mã vẫn hưởng quyền tự chủ tương đối lớn, Thanh Hải độc lập trên hầu hết phương diện, có thể nói là ở trạng thái nửa cát cứ.[13]

Ban đầu, khi mới thành lập, quân đội của quân phiệt họ Mã chỉ có hơn 1.300 người song đến thời Nội chiến Trung Quốc đã tăng lên đến 150.000 quân.[13] Trong chiến tranh Trung-Tạng, quân Tây Tạng đã quyết định mở rộng cuộc chiến đến Thanh Hải để chống lại Mã Bộ Phương vào năm 1932,[14] song đã bị đánh bại. Mã Bộ Phương được nhà báo Mỹ John Roderick đánh giá là một người theo chủ nghĩa xã hội và thân thiện so với các quân phiệt họ Mã khác.[15] Mã Bộ Phương được ghi nhận là người vui vẻ nếu so sánh với sự cai trị thô bạo của Mã Hồng Quỳ (馬鴻逵; một quân phiệt tại Ninh Hạ bấy giờ).[16] Trong thời gian diễn ra chiến tranh Trung-NhậtNội chiến Trung Quốc, khác với các tỉnh ở phía đông, Thanh Hải hầu như không bị tác động. Quân của họ Mã đã thất bại trong chiến dịch Lan Châu trước Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.

Lúc mới thành lập tỉnh, toàn tỉnh Thanh Hải có 930.000 người.[13] Dưới thời Dân Quốc, hành chính của Thanh Hải có nhiều thay đổi, đến năm 1943 thì toàn tỉnh có 19 huyện. 6 thiết trị cục, đến năm 1947 thì toàn tỉnh của 1 thị là Tây Ninh, 1 địa là đốc sát khu hành chính Ngọc Thụ, 19 huyện, cùng với Kì Liên thiết trị cục và Tinh Xuyên thiết trị cục.[13]

Từ 1949 đến nay

Ngày 5 tháng 9 năm 1949, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào Tây Ninh. Ngày 26 tháng 9 cùng năm, Uỷ ban quân chính Nhân dân tỉnh Thanh Hải tuyên cáo thành lập. Ngày 1 tháng 1 năm 1950, chính quyền tỉnh Thanh Hải chính thức được thành lập, lấy Tây Ninh làm thủ phủ. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn duy trì ranh giới từ trước đó của Thanh Hải.[17]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thanh_Hải http://www.people.com.cn/GB/shenghuo/1090/2435218.... http://vietnamese.cri.cn/chinaabc/chapter3/chapter... http://www.qh.gov.cn/dmqh/system/2012/11/24/010016... http://www.qh.gov.cn/dmqh/system/2012/11/24/010016... http://www.qh.gov.cn/dmqh/system/2012/11/24/010016... http://www.qh.gov.cn/dmqh/system/2012/11/24/010016... http://www.qh.gov.cn/dmqh/system/2012/11/24/010016... http://www.qh.gov.cn/dmqh/system/2012/11/24/010016... http://www.stats.gov.cn/english/PressRelease/20190... http://www.gov.cn/test/2012-04/06/content_2107725....